Không phải tới bây giờ số phận nền công nghiệp xe máy nội mới được bàn tới, lo tới. Nhưng điều đáng nói là mới chỉ nhà làm chính sách lo, còn các doanh nghiệp nội lại tỏ ra vẫn rất “vô tư” (!), đa phần chấp nhận lắp ráp, thậm chí chuyển hẳn sang làm đại lý nhập khẩu.
“Xe máy nội chỉ dành cho miền núi”!
Thị phần xe máy đã làm một cuộc dịch chuyển ngược khá ngoạn mục, khi DN nội địa đang chiếm ưu thế 87,06% sản lượng năm 2001 chỉ còn lại gần 40% sản lượng trong năm 2007. Giai đoạn đầu những năm 2000, các DN thương mại, sản xuất lắp ráp xe máy với các sản phẩm nguồn gốc linh kiện Trung Quốc, thông dụng lại hợp túi tiền người dân, đã làm mưa làm gió thị trường. Nhưng ngay khi thói quen tiêu dùng thay đổi, đời sống của người dân được cải thiện, xe máy giá rẻ đã không còn là lựa chọn tối ưu. Chưa kể, các DN vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã rất nhanh nhạy khi thay đổi chiến lược để giành lại thị phần.
“GDP đầu người tăng, tất yếu dòng xe giá rẻ không thể tồn tại được”- ông Trụ phân tích - đáng lý các nhà sản xuất nội phải thay đổi chiến lược để thích ứng với hoàn cảnh mới. Nhưng thực tế có rất ít sự thay đổi, kết quả đa phần các DN nội đều rơi vào cảnh khó khăn. Xe máy nội bây giờ sản xuất lèo tèo, mà có sản xuất được thì cũng chỉ bán được ở nông thôn, miền núi.
“Nếu không được đầu tư bài bản, không phát triển khoa học công nghệ, đăng ký mẫu mã, không có bộ máy quản lý giỏi, thì thị trường xe máy trong nước sớm muộn gì cũng rơi vào tay các doanh nghiệp FDI” - ông Phan Đăng Tuất, Viện trưởng Viện chiến lược và chính sách Bộ Công Thương cảnh báo.
Dấu hỏi cho xe máy “Made in
VietNam
”?
Nhận định về bức tranh thị trường xe máy Việt
Nam
, các chuyên gia đều khẳng định một triển vọng sáng sủa. Nhưng nói như ông Phan Đăng Tuất, điểm sáng đa phần đều thuộc về doanh nghiệp FDI. Ngay cả khi tăng trưởng xe máy lên tới cả triệu chiếc một năm, câu chuyện về chiếc xe máy mang mác Việt vẫn còn rất xa vời. Miếng bánh thị phần chỉ có hạn, doanh nghiệp FDI rất mạnh, để tồn tại được ngoài những chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước, DN phải tự thân vận động. Nhưng “thực tế là nhiều DN lại không coi là vấn đề của mình, một số có tiền thậm chí còn đi làm ngân hàng. Nhiều DN được cấp giấy phép sản xuất, lắp ráp thì quay sang nhập khẩu nguyên chiếc” - ông Tuất nhận định - “Thời kỳ đầu chúng ta không sản xuất được do thiếu vốn, thiếu công nghệ, nhưng tới bây giờ khi làm được rồi lại “không chơi được vì không còn thị phần”.
Còn theo ông Trụ, các DN trong nước đang đứng trước sự lựa chọn sống còn giữa hai con đường phát triển. Một là tăng cường hợp tác, liên kết, đầu tư chiều sâu để phát triển thông qua xây dựng uy tín thương hiệu, mẫu xe của riêng mình. Hoặc trở thành mắt xích trong dây chuyền sản xuất của các hãng xe máy FDI. Đáng buồn là nhiều DN nội đã lựa chọn con đường thứ hai này.
Chuyển giao công nghệ có thể xem như vấn đề sống còn đối với các DN trong nước. Lấy một ví dụ đơn giản, các doanh nghiệp FDI đều đạt được tiêu chuẩn Euro 2 cho sản phẩm, nhưng các DN nội thậm chí còn không có thiết bị kiểm nghiệm Euro 2. Đồng nghĩa với việc phải sản xuất lại các mẫu cũ, sức cạnh tranh bởi thế bị giảm đi rất nhiều.
Nhìn về dài hạn, ngành công nghiệp xe máy trong nước có triển vọng phát triển rất sáng sủa, thậm chí dư sức xuất khẩu. Tuy nhiên, trái ngược với bức tranh chung ấy, tương lai dành cho các DN xe máy nội lại u ám chẳng kém gì số phận các DN ô tô nội hiện nay./.
M.Thu - TỔ QUỐC